Mới đây, TS
Ngoại giả, Nghị quyết của Chính phủ cũng nói đến vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế, đây vừa là mục tiêu ngắn hạn, vừa là đích trung và dài hạn của Việt Nam. Tiêu biểu nhất là việc triển khai thực hiện Đề án tổng thể về tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, hầu như chơi có bước đi nào rõ ràng. Khả năng vấn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam cũng giảm rất rõ so với năm 2007 và 2008.
Vấn đề là ý kiến này cần được hiểu và cụ thể hóa bằng những giải pháp nào? Theo phân tích của nhiều chuyên gia trong nước cũng như các định chế tài chính quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã đạt đến quy mô đủ lớn để các vấn đề môi trường, từng lớp có thể trở nên rào cản đối với quá trình tăng trưởng và phát triển tiếp theo.
N. Như muốn thay lời cho Chính phủ, ông Thành nói trong 3 năm tới, Chính phủ quan tâm nhất là ổn định, hồi phục và tái cấu trúc. TS. Lạm phát cho cả giai đoạn ước thực hiện ở mức tăng 9,2%, cũng không đạt so với đích đề ra là tăng từ 5 đến 7%. Tuy nhiên, nhiều chính sách được khai triển chậm và thiếu đồng bộ nên hiệu quả chưa đạt được như mong muốn.
Nhưng dù Chính phủ đã nhìn ra những vấn đề như vậy, quá trình này chưa đích thực được phát động. Trong 3 lĩnh vực tái cơ cấu hiện mới chỉ có 2 lĩnh vực có đề án là tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng, việc thực hành các đề án cũng chậm chạp.
Cùng với đó, cách giải quyết vẫn theo tư duy cũ, thậm chí có lúc quay về thời kỳ bao cấp với các mệnh lệnh hành chính đưa ra. Kinh nghiệm các nước đi trước trong khu vực cho thấy nếu mài miệt tăng trưởng nhanh mà xem nhẹ các nguyên tố phát triển vững bền, hệ quả sẽ khôn lường và mất rất nhiều thời gian, phí để khắc phục.
Huy Tầm nhìn dài hạn để vượt khủng hoảng! bẩm của Chính phủ về “Đánh giá bổ sung về kết quả thực hành ngân sách quốc gia năm 2012, tình hình khai triển thực hành dự toán ngân sách nhà nước năm 2013” cho hay các biện pháp gỡ khó cho sản xuất kinh doanh đã được khai triển rộng khắp.
Nguyễn Thường Lạng, Đại học Kinh tế quốc dân: Sự ổn định và tăng trưởng kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào khả năng bình phục và tái cấu trúc doanh nghiệp mà rộng hơn là bảo đảm dòng di chuyển vốn, nhân công, công nghệ cũng như sự vận hành ổn định vơ thị trường để gia tăng giá trị mới.
Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển- TS. Ông Huệ còn nhận định rằng không ít vấn đề lớn và yếu kém của nền kinh tế tồn tại từ nhiều năm, đến nay dưới tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, đã bộc lộ ngày một rõ.
Chả hạn như mô hình tăng trưởng, cơ cấu kinh tế, thiết chế kinh tế cần phải được “tái cơ cấu” ra sao nhưng vớ những vấn đề này chưa được quan hoài đúng mức, chưa đủ liều lượng. PGS. Bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn chưa có dấu hiệu được kiểm soát. Cho nên, nền kinh tế năm 2013 khó khôi phục nhanh, khó đạt tốc độ tăng trưởng cao. Lưu Bích Hồ cũng ca cẩm “Chính phủ nói nhiều nhưng không làm được và tôi tin tức là cũng không làm được”.
Bởi 2013 là năm tàng trữ tất cả những khó khăn, sụt giảm kinh tế kéo dài từ 2008 để lại. Bởi cùng bị ảnh hưởng, nhưng một số nước trong khu vực lại tăng trưởng tốt hơn Việt Nam rất nhiều, nhất là hai năm gần đây như Indonesia, Philippines.
000 tỷ đồng trong suốt năm 2009. Khi củng cố được lòng tin trong nước sẽ không khó tiếp cận nguồn vốn quốc tế. Điều này càng gây khó cho điều hành chính sách, bởi thời khắc này nếu muốn kích tổng cầu phải dựa vào đầu tư công, trong khi kho bạc quốc gia lại đang khó cân đối.
Ngô Trí Long: Niềm tin vào sự bình phục của nền kinh tế đang bị suy giảm, biểu hiện ở việc nhà đầu tư không đưa vốn, người tiêu dùng cũng không sẵn sàng xài, nên tổng cầu và tổng cung năm 2013 khó cải thiện. Vấn đề đặt ra là cần có định hướng cơ bản để huy động hiệu quả nguồn lực, đẩy nhanh quá trình phục hồi và tái cấu trúc doanh nghiệp để vừa vượt qua khó khăn vừa đạt mục tiêu bao trùm của cả thời đoạn - đưa Việt Nam cơ bản trở nên nước công nghiệp theo hướng đương đại vào năm 2020.
GDP năm 2012 chỉ tăng 5,03% – mức thấp kỷ lục trong nhiều năm. Trước bối cảnh đó, Chính phủ đã ban hành và thực hành quyết liệt quyết nghị 11 về cắt giảm tổng cầu để kềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Hoàn toàn đồng tình quan điểm này của nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan, chủ toạ Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa- TS.
Đã đến lúc Việt Nam cần nghĩ đến nguy cơ giảm phát và một gói nới lỏng định lượng cho nền kinh tế - viện trợ cho người thu nhập thấp, người mua nhà để ở.
Nguyễn Đức Độ: khuynh hướng lạm phát trong những tháng còn lại của năm 2013 được khẳng định trong mô hình tự hồi quy (Autoregression) cho thấy, sức mua đang có thiên hướng bị giảm sút nghiêm trọng, bất chấp cung tiền tăng và lãi suất có khuynh hướng giảm trong thời kì qua.
Câu chuyện lớn nhất tại Việt Nam những năm gần đây là kinh tế vĩ mô bất ổn định, lạm phát cao. Nhưng trên thực tại, theo phân tích của các chuyên gia, nền kinh tế Việt Nam đang kẹt trong tình thế tăng trưởng chậm, loay hoay ở vùng đáy chưa có cách thoát ra.
Tốc độ tăng trưởng làng nhàng của Việt Nam bắt đầu suy giảm nhanh và liên tiếp từ giai đoạn cuối 2007 đến nay, trong khi đó, tăng trưởng những nước trên đều khởi sắc hơn kể từ 2009. P. Vĩ mô ổn định, chính sách nhất quán, xã hội sẽ bỏ vốn ra, không cất giữ trong vàng, ngoại tệ trong két sắt nữa, mà đưa ra đầu tư. Năm 2013 là năm nối niềm tin của thị trường bị sút giảm nghiêm trọng, muốn xúc tiến thương nghiệp đầu tư trước tiên các chính sách phải lấy lại niềm tin cho thị trường.
Đại diện cho nhóm nghiên cứu của trường Đại học Kinh tế quốc dân- GS Trần Thọ Đạt- cho biết: qua những phân tích, thì cho thấy, nửa chặng đường của kế hoạch 5 năm 2011- 2015 khả năng đạt được mục tiêu là mong manh.
Ông Kiêm cho rằng hầu hết những giải pháp của Chính phủ làm ấm lại nền kinh tế đều nặng về giải pháp tình thế và còn có trình bày chạy theo giải quyết những vấn đề nóng, bức xúc, trong khi, những hạn chế của nền kinh tế đã điển tích từ lâu và kéo dài.
Với ước thực hành GDP của năm 2013 là tăng 5,4%, ước thực hành của cả thời đoạn 2011- 2015 chỉ là 5,8%, trong khi đích ban sơ đề ra cho thời đoạn này là tăng từ 7 đến 7,5% (sau được điều chỉnh xuống còn ở mức tăng từ 6,5 đến 7%).
Điều này cũng cho thấy sự không ổn của Việt Nam, trừ đi phần lợi nhuận chuyển ra nước ngoài, tốc độ tăng của chỉ số GNI thấp hơn nhiều so với GDP (GNI là chỉ số tính tăng trưởng thực của nền kinh tế trừ đi yếu tố sở hữu có thể chuyển vốn ra bên ngoài). Các chuyên gia đang kỳ vọng Chính phủ có sự đột phá trong chính sách để vực dậy nền kinh tế.
Hiện nay, trong nền kinh tế vẫn còn nhiều nguồn lực có thể khích lệ được nếu thị trường có lòng tin. Trần Đình Thiên- chuyên gia kinh tế hàng đầu, đã rất có lý khi đưa ra khuyến nghị về kinh tế Việt Nam thời điểm này: “Nếu không có những biện pháp dài hạn không thể vượt qua những khó khăn ngắn hạn”.
Việt Nam phải bền chí, nhất quán, không vì sức ép nào mà lánh né hay làm lệch lạc đích đã được xác định này. Sao lại cứ đổ tội cho tình hình khách quan”, ông Khoan nói và khẳng định nguyên nhân chủ yếu là “đã để vỡ ổn định kinh tế vĩ mô từ năm 2007 đến nay”. Nếu bỏ lỡ sẽ khó vượt qua thách thức lớn nhất của cả giai đoạn dài sắp tới là “bẫy thu nhập nhàng nhàng”.
Nhiều cảm thông với điều hành của Chính phủ, nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan nói rằng việc kiểm điểm này nên đặt trong cả thời đoạn 10 năm 2011- 2020, và cần nhìn lại nhiều lĩnh vực, chứ không chỉ là kinh tế, với những con số mà “tôi tuy “cóc ngồi đáy giếng” nhưng vẫn thấy nó khó tin, như con số nợ xấu, nay thế này, mai đã thế khác.
Việt Nam chưa khắc phục được những vấn đề của chính mình dẫn tới hệ quả khủng hoảng, duyệt y những bất cập trong nước tác động nặng nề hơn tới Việt Nam so với các quốc gia khác. V Nếu tiến độ cải cách chậm, kinh tế Việt Nam khó vượt qua khủng hoảng Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, những nền kinh tế lớn như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản gần đây cũng đang có dấu hiệu bước vào chu kỳ mới là cơ hội Việt Nam cần tận dụng.
Nước ta đang sang tuổi phát triển chậm dài nhất từ thời Đổi Mới, nhưng đây cũng là thời cơ để hi vọng lại sau chặng đường tăng trưởng nhanh, điều gì tốt cần phát huy, điều gì không tốt phải thay đổi. TS. Điểm lại diễn biến kinh tế từ thời điểm đó đến nay, có thể thấy lời cảnh báo này đang dần trở nên sự thật khi nền kinh tế đất nước loay hoay ở vùng đáy trong thời kì dài, dường như chưa tìm được cách để thoát ra bởi thiếu những giải pháp mang tính dài hạn.
Gói kích cầu này phần nào tương trợ doanh nghiệp và nền kinh tế vượt thoát khó khăn trước mắt, nhưng hệ lụy sau đó là kéo bóng ma lạm phát trở lại. /. Cho rằng tình hình “vì sao nên nỗi”, cũng bởi đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học, đội ngũ tham mưu chỉ “dâng” lên Chính phủ những bức tranh “đẹp” cho vừa lòng lãnh đạo, Tổng thư ký Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam- GS.
Về căn bản, chưa thể nói Việt Nam đã phục hồi sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Khi đạt được đích tăng trưởng lại mất mục tiêu kiềm chế lạm phát và trái lại. Cho nên, tôi vẫn luôn mong đợi vào sự chuyển biến nhiều hơn nữa trong cách thức điều hành của Chính phủ trong thời kì tới.
Khó khăn này không những chi phối kế hoạch năm 2013 mà còn ảnh hưởng đến thực hành kế hoạch 5 năm”- ông Cao Sỹ Kiêm- Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ, hi vọng. Dù vậy, Chính phủ cần cụ thể hóa những địa chỉ, những lộ trình một cách rõ ràng để giải quyết các vấn đề ách tắc của nền kinh tế, cả trong trước mắt và lâu dài.
Rõ ràng là tình hình không thể lạc quan như đánh giá của ông Thành, khi mà không chỉ số đông chuyên gia kinh tế, mà ngay cả Trưởng Ban Kinh tế Trung ương- ông Vương Đình Huệ luôn phải nhắc đi nhắc lại về cảnh báo “Nhiều chỉ tiêu phát triển kinh tế từng lớp Đại hội Đảng XI đề ra dự định không đạt kế hoạch, nguy cơ dẫn đến việc tụt hậu ngày càng xa của Việt Nam so với các nền kinh tế trong khu vực”.
Năm 2013 được xem như đáy suy giảm của kinh tế Việt Nam khi nhiều bất cập trong cơ cấu kinh tế phát tác hậu quả rõ nhất: nợ xấu ở mức cao khiến dòng vốn tín dụng bị ngưng trệ, sinh sản kinh dinh của doanh nghiệp đã khó khăn càng thêm khó. Phục hồi không nên quá vội vã, mà phải ưu tiên cho ổn định kinh tế vĩ mô và dồn sức cho tăng trưởng. Cần xác định đây là giải pháp mang tính dài hạn, thậm chí bằng lòng hy sinh mục tiêu tăng trưởng trong ngắn hạn.
Bước sang năm 2012, tác động của chính sách cắt giảm tổng cầu cộng với tình hình kinh tế thế giới tăng trưởng chậm chạp, đã khiến hoạt động sinh sản kinh dinh đình trệ, hàng loạt doanh nghiệp phải dừng hoạt động hoặc phá sản. Nhưng điều gì cũng cần được suy xét từ gốc, đầu tiên phải đáp được câu hỏi: tại sao kinh tế Việt Nam bị kẹt trong tình thế như hiện giờ? Xét về mặt chủ quan trong điều hành chính sách, phải cương trực nhóng trong 5 năm qua chúng ta cốt tử chạy theo tình thế.
Để trả lời cho câu hỏi “vì sao nên nỗi” này, theo nguyên Phó thủ tướng, những hạn chế bất cập trong điều hành không được nhìn thẳng, khi Chính phủ luôn giải thích rằng nền kinh tế khó khăn, là bởi khủng hoảng kinh tế thế giới, chứ ít khi đi vào nguyên nhân chủ quan là có sai trái trong điều hành.
Năm 2008, khi kinh tế thế giới khủng hoảng tác động mạnh tới Việt Nam, Chính phủ đã triển khai gói kích cầu chuẩn y chính sách thuế và hỗ trợ lãi suất trị giá 150.
Chúng ta đã từng có kinh nghiệm sâu sắc nếu không có những biện pháp dài hạn không thể vượt qua những khó khăn ngắn hạn. Hồi phục và tái cấu trúc doanh nghiệp là giải pháp hiệp nhất để đưa doanh nghiệp vượt qua tình trạng khó khăn, giảm thiểu vỡ nợ, đóng cửa, thu hẹp sinh sản hàng loạt do tác động khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu cũng như các giải pháp thúc bách về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
“Tại sao nên nỗi”? Một trong những câu hỏi mà Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đặt ra trong Hội thảo của Ban Kinh tế Trung ương Đảng ngày 23/9 với chủ đề “Nhìn lại nửa chặng đường phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011- 2015 và những điều chỉnh chiến lược” là, tại sao nền kinh tế Việt Nam lại ra khỏi khủng hoảng kinh tế chậm hơn các nước trong khu vực? Tốc độ tăng trưởng của Việt Nam thời đoạn 2011- 2012 tương đương với Philippines, thấp hơn Malaysia và Indonesia, nhưng cao hơn Singapore và Thái Lan.
Hệ quả của sự suy giảm niềm tin đã ít nhiều làm nền kinh tế thiếu đi động lực để phát triển. Theo tôi, tình hình thời gian tới có sáng sủa hơn hay không phụ thuộc nhiều vào kiên tâm và tiến độ của cuộc canh tân kinh tế, nếu không có những thay đổi rõ nét thì rất khó để nền kinh tế Việt Nam vượt qua những khủng hoảng giờ, trở lại đà tăng trưởng tốt trước khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra.
“Tôi không tin khủng hoảng kinh tế thế giới ảnh hưởng khiến nền kinh tế của chúng ta khó khăn, khi mà những lĩnh vực can hệ đến thế giới như xuất khẩu, đầu tư nước ngoài. Như vậy, dù đang ở đáy khó khăn chúng ta vẫn có đủ cơ sở lòng tin và sự lạc quan dài hạn rằng: Nền kinh tế đang mở ra dư địa cải cách rất lớn.
Xuất khẩu tăng trưởng khá nhưng cốt tử nhờ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nếu tách riêng nội địa thì tăng trưởng xuất khẩu lại sụt giảm so với năm trước và giờ thị phần xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ khoảng 35%.
Nên nhìn vào thực trạng từng lớp mà đánh giá thì hơn”. “Nếu nhìn lại 5 năm qua, từ 2008 đến nay, kinh tế đang bước chậm lại, thậm chí có những mặt thụt lùi, khoảng cách so với thế giới và khu vực càng ngày càng tăng. Vì thế, thời điểm khó khăn ngày nay là nhịp để nước ta giao hội vào đích chính là tiến hành cải cách cơ cấu một cách quyết liệt.
Võ Trí Thành nói. Điều được đợi chờ trong những tháng cuối năm là những giải pháp mới mang tính đột phá để kích hoạt lại tăng trưởng kinh tế. Thực tế thời đoạn 5 năm qua cũng cho thấy việc điều hành chính sách theo phương thức “chạy theo tình thế” khiến đích tăng trưởng và ổn định vĩ mô đều không mang lại kết quả mong muốn.
Nền kinh tế đang cần các bước ngoặt đột phá để giải quyết những vấn đề trung hạn, dài hạn, những vấn đề chủ chốt của nền kinh tế. Phần nhiều những chỉ tiêu quan trọng nhất như các chỉ tiêu liên hệ đến tăng trưởng và việc làm, lạm phát và ngân sách, đều có khả năng không đạt được mục tiêu đề ra. Cao Sỹ Kiêm, chủ toạ Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ: trông một cách công bằng thì những việc Chính phủ, các bộ, ngành đã làm được trong thời gian qua cũng đáng được ghi nhận.
Nguyễn Quang Thái, nhấn mạnh “muốn thoát khỏi tình trạng bê trễ này, cần phải có nhiều hơn nữa tinh thần dân chủ”. Việc quá lo ngại lạm phát trong giai đoạn kinh tế suy giảm cũng có thể để lại những hậu quả nặng nề không kém so với việc coi thường lạm phát trong bối cảnh đang tăng trưởng nóng.
Tuy nhiên, ngoại trừ Singapore, trong thời đoạn này, tuốt các nước trên đều có tốc độ tăng trưởng cao hơn tuổi trước (2008- 2010) trong khi tăng trưởng của Việt Nam suy giảm qua hai thời đoạn trên.
Từ đầu năm đến nay, Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách tháo gỡ khó khăn hoạt động sinh sản kinh dinh, phóng thích hàng tồn kho, kích thích tổng cầu duyệt quyết nghị 01 và 02.
TS. Việt Nam phải đánh đổi rất lớn giữa tăng trưởng và lạm phát. Nếu nhìn lại 5 năm, từ năm 2008 đến nay, tốc độ phát triển kinh tế của nước ta đang bị chậm lại, thậm chí có những mặt giật lùi. Đều là những điểm sáng của nền kinh tế chúng ta. Đây cũng là một trong những yếu tố làm giảm lòng tin của cộng đồng doanh nghiệp và người dân đối với hành động của các cơ quan chức năng trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Mặt khác, ngân sách quốc gia sau nhiều năm vượt thu đang đứng trước khả năng hụt thu bởi nguồn lực của doanh nghiệp đã kiệt quệ.
Năm 2010, lạm phát tăng lên 11,75% từ mức 6,88% của năm 2009. Năm 2011 lạm phát tiếp tục tăng 18,58%, ảnh hưởng mạnh tới mọi mặt đời sống xã hội và nền kinh tế. TS. Vấn đề chính là những yếu kém nội tại của nền kinh tế mà qua khủng hoảng toàn cầu, qua hội nhập lại càng biểu thị rõ hơn.
Những cố gắng đích thực để tái cơ cấu kinh tế chưa được bao lăm, sức ỳ và rào cản vẫn còn rất lớn. Những vấn đề đáng báo động đó không chỉ tác động trực tiếp đến việc thực hành nhiệm vụ kinh tế- xã hội năm 2013 mà sẽ còn tác động cả trong năm 2014, 2015 và vững chắc sẽ ảnh hưởng đến việc thực hành đích kế hoạch 5 năm 2011- 2015.
“Nền kinh tế cần bước ngoặt đột phá” “Việt Nam đang trong bối cảnh sơ kết nhiệm kỳ, với những chuyển động chính trị, nên phải nói đây là thời kỳ rất nhạy cảm”- Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương- TS.
Cao Sỹ Kiêm còn cho rằng, việc điều hành của Chính phủ, càng vào thời khắc khó khăn, càng không kiểm soát được tình hình, khiến nền kinh tế rơi vào khó khăn sâu hơn.
Tóm lại, có thể khẳng định ở Việt Nam, vấn đề số một vẫn là những yếu kém của nền kinh tế chứ không phải riêng ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét