Thứ Năm, 5 tháng 9, 2013

Những Nhà văn, sứ thần văn hóa dân tộc thời toàn cầu hóa.

Không chỉ các nhà văn Á-Phi, mà tôi nghĩ rằng, ai là người cầm bút chân chính trên Trái đất – cái làng chung của nhân loại - cũng đều suy nghĩ và mong muốn làm được như thế. Hầu như mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự và tất nhiên là cả văn hóa nữa đều bị chi phối bởi cái gọi là toàn cầu hóa. #, Những bài ca, những anh hùng ca, huyền thoại và đạo lý nhiều thế kỷ của tổ tiên. Tôi rất tâm đầu ý hợp với quan điểm của nhà văn Fadhl Thamir đến từ I-rắc: Nhà văn phải là những sứ giả chuyển thông điệp của dân tộc mình ra thế giới, ra nhân loại.

Trong thời đại kỹ thuật số, không phải không có lý khi ai đó cho rằng Trái đất muôn vàn yêu quý của chúng ta chỉ là một cái làng lớn.

Nhưng cái đáng nói là Truyện Kiều của Tố như chơi bị chìm khuất, lép vế sau Đoạn trường tân thanh mà nó đã trở nên tác phẩm đồ sộ, trở thành chói sáng oắt bởi những câu thơ lục bát tài ba viết bằng chữ Nôm chỉ có ở Việt Nam thấm đẫm nỗi xót xa nhân loại từ "Những điều trông thấy mà đớn đau lòng".

Và chừng như còn hơn thế nữa. Tôi nghĩ, Nguyễn Du đã đi đến tận cùng dân tộc Việt của mình, kể cả nỗi đau và khát vọng nên mới gặp được nhân loại trong mẫu số chung là ước mong về cuộc sống lương thiện, nhân hòa. Cách đây mấy trăm năm, Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều bằng chữ Nôm với thể thơ lục bát của Việt Nam trên cơ sở nội dung một tác phẩm văn xuôi của Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc) là một ví dụ về giao thoa văn chương.

Rõ ràng, thơ ca nói riêng và văn học nói chung vẫn chưa mất đi giá trị của nó trong việc bảo vệ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời cũng là nhịp cầu nối các nền văn hóa lại với nhau trong tình ái và khát vọng hòa bình cho nhân loại.

Người nghệ sĩ là một đứa con của đất nước mà chỉ có nó mới có thể giao cảm hết những cái vui buồn và nhọc nhằn của người mẹ - cả những điều mà người mẹ không bao giờ nói ra (Trang giấy trước đèn).

Những bước tiến của kiến thức, của khoa học kỹ thuật cần được “bảo hiểm” bởi lòng nhân ái và tình thương đồng loại, mà như chúng ta đã biết thi ca và văn học luôn hướng về điều đó. Mới khẳng định được giá trị tư tưởng và nghệ thuật ở ngoài biên giới giang san này.

Những tập đoàn kinh tế, những công ty xuyên quốc gia không còn là chuyện lạ lẫm với chúng ta. Chao ôi, nhân loại đang hiện thực hóa những ý tưởng cách đây chưa lâu mấy được coi là viển vông, rồ dại trong dòng chảy cuồn cuộn mang tên toàn cầu hóa.

Họ cho rằng: Trong thời đại toàn cầu hóa, nhà văn phải biểu hiện được lương tâm của nhân dân nước mình và quyết không để một thế lực nào đó làm bá chủ về văn hóa, phải chống sự quay lại của chủ nghĩa thực dân hóa.

3. Thực ra, sự hòa nhập, giao thoa văn hóa đã có từ lâu, dường như nó đi trước cả kinh tế, chính trị. Toàn cầu hóa là quá trình thế tất của lịch sử nhân loại, dù ai cố sức bế quan tỏa cảng cũng không ngăn chặn được sự xâm nhập bạo liệt và lãnh đạm của nó vào nhà nước, dân tộc mình ở nhiều phương diện. 2. NGUYỄN HỮU QUÝ. Con người làm ra những phương tiện chuyển vận đường không, đường thủy, đường bộ ngày càng hiện đại, cùng với hệ thống mạng tinh vi và đổi thay đến chóng mặt kết nối khắp mọi miền trên Trái đất làm cho nhiều câu chuyện "trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã thông".

Trong bài viết của mình, Nikolai Preiaxlov đến từ đất nước Nga đã khẳng định: gìn giữ thơ ca dân tộc, đó không chỉ đơn giản là bảo toàn văn hóa khỏi sự vứt bỏ và sự xói mòn bởi những trào lưu văn học mốt mới. Khi viết ra những dòng này, tôi lại nhớ tới những suy nghĩ về nghề của một nhà văn quân đội mà tôi rất kính trọng là Nguyễn Minh Châu.

Ông tâm can rằng: Mỗi nhà văn gắn chặt với số phận dân tộc và tổ quốc mình – như cái đai của người mẹ quấn quanh mình đứa trẻ. Trong Liên hoan Thơ quốc tế châu Á-Thái Bình Dương lần thứ nhất được tổ chức vào đầu năm 2012 tại Hạ Long (Quảng Ninh, Việt Nam), tôi đã nghe được điều ấy từ một số thi sĩ nước ngoài. Ở khía cạnh này, sự gặp gỡ của quan hệ nội tại dựa trên những tác phẩm văn học sẽ cho chúng ta dịp lớn để hội thoại về văn hóa và văn minh một cách trọng và hòa bình.

Sáng tỏ ra một điều, đã có từ xưa, dù có giao thoa hòa nhập đến mức độ nào đi nữa thì cốt cách, hồn mai dân tộc vẫn phải là cốt lõi, vẫn là cái đặc trưng của mình. Dù quá trình toàn cầu hóa có diễn tiến quyết liệt và thảm khốc đến bao nhiêu thì sự tôn trọng thành thực các nền văn hóa khác nhau là một trong các yếu tố bảo đảm hòa bình cho nhân loại.

Các quốc gia, các dân tộc trên hành tinh này ít xa vắng hơn nếu không muốn nói là đang có khuynh hướng xích lại gần nhau.

Toàn cầu hóa, đấy là khái niệm quan yếu bậc nhất, liền được con người nhắc đến. Cũng như vậy, thơ Nguyễn Trãi, thơ Hồ Xuân Hương.

Ý niệm ấy có vẻ như đồng thuận với ý niệm của không ít nhà văn, thi sĩ không mang quốc tịch Việt Nam. Với thi ca, ông cảm nhận: Thơ nhìn vào thế giới từ những đặc điểm riêng và sự khác biệt của nó, cho nên thơ có sức mạnh bảo vệ và phát triển bản sắc văn hóa của mỗi nhà nước, chạm vào trái tim của con người trên khắp thế giới. Đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc là đánh mất cả thảy.

Sarjono (Indonesia) tâm tình: Trái tim của những nền văn hóa được gìn giữ và trình bày phê chuẩn các tác phẩm văn học. Rất gần đây, trong Hội thảo bàn tròn Vai trò các nhà văn Á-Phi trong thời đại toàn cầu hóa, tổ chức tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam (9 - Nguyễn Đình Chiểu - Hà Nội), tôi cũng nghe các nhà văn trong và ngoài nước nhiều lần nhấn mạnh đến bản sắc dân tộc.

4. Rất mau lẹ, những quốc gia có mức thu nhập trung bình như Việt Nam hoặc kém hơn vẫn có thể xài những sản phẩm mới mẻ nhất, đương nhiên là rất đương đại, tinh vi mà nói theo tiếng nói bụi là "hàng khủng" và cũng đắt tiền nhất được sinh sản ra từ những nước G7.

Rất, rất nhiều người trong người đời đông đúc và tò mò hiện thời chỉ cần nhấp chuột bấm phím máy tính đã nối mạng là có thể biết 24 giờ qua thế giới có những chuyện gì, từ những vụ biểu tình bạo loạn, đánh bom khủng bố đến sáng kiến kỳ quặc là người ta có thể thỏa mãn tình dục khi xa nhau nhờ những bộ đồ lót được số hóa.

Văn hóa nói chung và văn học nói riêng của mỗi dân tộc cũng không thể bình an, đứng riêng một cõi. Những điều nhà văn tài danh này nghĩ ngợi rất đáng để các nhà văn chúng ta soi mình trong dòng hội nhập toàn cầu hóa bữa nay: Diễn tả chân thực đời sống con người Việt Nam thấu tận chiều sâu triết học, con đường văn chương ta luôn luôn được cầm tay quần chúng và tìm thấy tiếng nói trong nền văn học thế giới (Tạp chí văn chương, 5 - 1989).

Chẳng riêng gì ta, bản sắc dân tộc là điều linh rất được các nhà văn, thi sĩ nước ngoài chú ý. Mọi nền văn hóa, mọi nền văn chương trên thế giới đều phải được bình đẳng. Trái tim ấy sẵn sàng cộng tác với những dân tộc của một nhà nước, một nền văn hóa khác, gieo trồng hòa bình trên mảnh đất phì nhiêu của kiến thức. Giữ gìn thơ ca dân tộc, đó còn có nghĩa là bảo tàng tâm hồn của chính nhân dân, vày chính trong thơ ca đã in dấu các truyền thống sinh hoạt và lễ nghi của quần chúng.

Lòng thương người, tính nhân văn ắp ứa từng con chữ; nhân loại tìm thấy trong bóng vía nàng Kiều của Nguyễn Du những số kiếp tài sắc bạc phận, từ đó ghê tởm hờn căm cái ác độc, cái xấu xa và khát khao thăng bình hạnh phúc cho con người bé nhỏ.

QĐND  -   1. Văn hóa nói chung và văn học nói riêng luôn luôn là nhịp cầu nối hữu hảo để các dân tộc, các quốc gia xích lại gần nhau. Văn hóa là tấm chứng minh thư chính xác nhất của mỗi dân tộc; không biết Giữ gìn, bảo toàn và phát triển nó thì mọi thế sáng tạo văn chương nghệ thuật, theo tôi sẽ không tới đích, sẽ khó vươn ra nhân loại được.

Cũng hướng về dân tộc và đất nước mình, thi sĩ Agus R.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét